Tên di sản : Nhà ông Lê Đình Bường
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 4822/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nhà ông Lê Đình Bường nằm ở trung tâm làng Quần Đội trong một không gian kiến trúc cao ráo, thoáng đãng, mặt trước quay về hướng đông nam, cách sông Chu khoảng 700 - 800m, hướng ra phía Đông là làng Hón của xã Thọ Hải, phía Tây là làng Mía (Thọ Diên), phía Bắc là sông Chu, phía Nam là xã Xuân Hưng của huyện Thọ Xuân.
Thăm quan di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Cổng: Có kích thước chiều rộng cửa 2,7m, cao 2,8m, mới được xây dựng bằng vôi, gạch, hồ vữa, có mái che lợp ngói, ở phía trước được xây chắn mái, phía trên phần chắn mới được đắp bức cuốn thư, trang trí hoa văn tùng, cúc, trúc, mai; ở hai bên cột nanh của công được đắp hai câu đối: “Thiên môn đắc lộc thiên niên thịnh, Túc gia (?) vũ vạn nguyệt vinh” (Cửa thiện ban lộc nghìn năm thịnh, Đây nhà (văn ?) vũ đời đời vinh)
Sân: Là phần đất năm trước bao gồm 2 khoảng, khoảng ngoài và phần đất ngoài là vườn hoa, cây cảnh được trồng một số cây lưu niên. Tiếp giáp với khoảng đất phía ngoài là sân có diện tích 171,45m2 (chiều dài 13,5m, chiều rộng 12,7m) được lát gạch bát sạch sẽ, có tường rào thấp bao bọc. Tất cả được tạo nên một khung cảnh hài hoà với một bố cục Cổng - Sân - Nhà.
Kiến trúc nhà: Nhà gồm 4 gian, 5 vì kèo được cấu trúc theo kiểu “Giá chiêng, chồng rường, kẻ bẩy”. Kích thước: chiều dài 12,3m, chiều rộng trong lòng nhà 5m, hiên rộng là 1,4m, dài hiên 7,4m. Gồm 2 mái, mặt trước có mái hiên thông suốt 3 gian ngoài, còn gian buồng được xây ra sát tường hồi. Vật liệu xây dựng bao gồm gỗ, luồng, vôi vữa... nên được lát gạch bát màu đỏ, đốc tường xây bằng gạch, mái lợp ngói mũi. Tổng quát nhà bao gồm: 9 cột cái có chu vi cột 0,77m, cao 3,95m; 10 cột quân, chu vi cột 0,56m, cao 3,15m; 10 cột hiên, chu vi cột 0,53m, cao 2,15m. Từ thượng lương xuống nền nhà cao 4,48m với hệ thống các xà dọc nối các vì kè, các xà này cùng với hoành mái làm nhiệm vụ nối các vì kèo của ngôi nhà tạo nên khung liên kết vững chắc.
Kích thước của từng gian: nhà gồm 4 gian, có 3 gian bằng nhau (gian 1, gian 3) mỗi gian rộng 2,5m; gian buồng (gian 4) rộng 4,5m. Từ tường đốc đến cột quân sau là 0,30m; Từ cột quân sau đến cột cái sau là 0,80m; từ cột cái sau đến cột quân trước ở gian giữa là 2,55m; từ cột quân trước ra đến cột hiên là 1,5m.
Về hai vì kèo giữa (vì 2 và vì 3). Kết cấu theo kiểu “vì kèo trụ trốn – kẻ chuyền”. Quan sát trên vì kèo: trên đỉnh vì là một xà nóc (còn gọi là thượng lương) được tì lực trên một đấu hình thuyền nằm dọc đỡ chỗ giáp nối của hai đầu thượng lương ở gian giữa và đầu cột ở tường vỉ. Đấu hình thuyền này lại tì lực lên một đấu vuông. Đấu hình vuông này lại được nằm trên một con rường bụng lợn chạy qua hai mái (mái trước và mái sau), trên đấu của hai con rường này là nơi tì lực đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. Ở phía dưới của con rường này được gối lên hai cột trốn qua hai đấu vuông thót đáy. Hai cột trốn hình tròn đứng trên đấu cũng qua hai đấu vuông thót đáy. Phía ngoài hai cột là hai kẻ cong lên phía trên được ăn mộng vào thân cột trốn, ở ván nong dày (lá dong) có khoét các lỗ hổng để làm chỗ đứng chân cho các hoành mái (đòn tay).
Ở bên dưới câu đầu là Quá giang. Quá Giang được ăn mộng trên hai đầu cột quân của mái trước và mái sau. Khoảng không gian của câu đầu và quá giang được cấu trúc là một cột cái ở mái sau nhô cao và được bổ mộng để câu đầu ăn mộng vào. Còn ở mái trước lại là một trụ trốn đứng trên quá giang, trên một đấu vuông thót đáy và đầu của trụ trốn này được bổ mộng đế đỡ các câu đầu. Phía ngoài trụ trốn và cột cái của vì kèo là hai kẻ chuyền (tính từ câu đầu xuống) ăn mộng én qua đầu cột cái ở mái sau và trụ trốn ở mái trước rồi chạy xuống đầu cột quân. Tiếp theo từ đầu cột quân lại một kẻ nữa nối dài xuống cột hiên mà ta vẫn gọi là kẻ chuyền. Ở trên các kẻ này là những ván nong cũng được khoét lỗ để làm chỗ đứng cho các hoành mái. Các kẻ này cũng được tạc cong lên phía trên để tạo nên sự khoẻ khoắn đỡ toàn bộ mái nhà. Cấu trúc cuối cùng là một bẫy cổ ngỗng ăn mộng từ cột quân nằm ở trên hệ bức tường gỗ xuân hoa (ngăn cách giữa nhà trong và hiên) chạy qua đầu cột quân và vươn dài về phía trước đỡ hoành tải.
Về hai vì 1 và vì 4, nhìn chung cơ bản giống nhau về kiểu liên kết có kết cấu “chồng rường, kẻ bẩy”, chỉ có khác vì kèo này do nằm sát gian chái nên không ảnh hưởng đến diện tích sử dụng của nhà thờ, đồng thời cũng để làm tăng thêm sự vững chắc của ngôi nhà nên việc đỡ vì kèo (câu đầu) là hai cột cái vươn thẳng từ câu đầu xuống nền nhà, còn ở vì kèo giữa ở mái thì lại được thay thế bằng một trụ trốn nằm trên quá giang. Hai vì kèo hồi này còn được lát những bức ván đố lụa từ trên đỉnh mái xuống sát nền nhà đã tạo nên sự khác biệt giữa hai chái và ba gian chính của nhà thờ. Những bức ván này được bố trí trong các ô to nhỏ khác nhau theo những quy luật đăng đối, tạo nên sự vui mắt của toàn bộ vì kèo. Những ván này còn được người thợ tạo thành những đường gờ soi chỉ toàn bộ bề mặt của vì kèo hôi.
Một điểm khác nữa là ở ngoài hiên của vì kèo giữa là các kẻ chuyền thì ở vì kèo hồi kẻ chuyền được thay thế bằng các con rường, bức “cốn”. Các rường này được ăn mộng vào xà nách và cột quân tạo thành các trường cụt sát cột hiên cho đến cột quân theo thứ tự từ thấp lên cao và ngắn dần về phía trước, vừa làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải, vừa là để trang trí những bức chạm khắc trên các con rường.
Về vì kèo 5, được cấu trúc đơn giản gồm Quá giang, trụ trốn, kèo suốt tạo thành bộ khung đỡ các hoành mái.
Về nghệ thuật trang trí:
Ngôi nhà đã có lịch sử hơn 100 năm vào thời vua Thành Thái thứ 12 (1892). Đây là một ngôi nhà có kiến trúc độc đáo, tuy nhiên phần trang trí trên các bức cốn, ván nong cũng như những khung gỗ được trang trí hình lá cúc cách điệu, hình bát quái, các hình triện cách điệu hình hoa lá...đã làm nên sự mềm mại uyển chuyển của công trình. Còn trong toàn bộ kiến trúc của ngôi nhà, ở các đầu kẻ bẩy, kẻ chuyền và một vài phiến đoạn khác của bộ khung gỗ cũng được chạm khắc hình hoa lá...
Các bức chạm khắc, lá cúc được thể hiện khá nhiều trên các phiến đoạn kiến trúc như kẻ bẩy (ở phía sau và gian hồi), các con rường trên các bộ vì nóc. Phổ biến là loại lá cúc to bản có đủ sống lá, gân lá, mép lá hình răng cưa gần giống với lá cây “dương xỉ. Ở các thân kẻ lá cúc được chạm khắc hình uốn lượn chạy hết chiều dài của thân kẻ; còn ở các con rường thì lại được chạm hình hoa cúc có hai lớp cánh nở ôm lấy nhụy hoa. Ở các kẻ phía trước ngôi nhà thì hình lá cúc lại được chạm loại bé nhỏ tựa như một cánh hoa cúc nhỏ chạy dọc thân cúc dây lượn hình sin.
Hoa mai, ở đây có hai loại:
Hoa mai được chạm khắc trên thân kẻ của hai vì gian giữa, đó là mai tròn nhiều cánh (6-8 cánh) xoè nở tròn, chính giữa có chúm tròn (nhụy hoa), các cánh đều toả ra xung quanh, dáng cánh ngắn mập.
Bức chạm hoa mai ở trên các bức xuân hoa ở vì hậu (vì thứ 2 và thứ 3). Cả hai bức chạm này đều chạm hình song mai (một cây mai lớn và một cây mai nhỏ). Cây mai lớn trên lưng cây mai nhỏ. Hoa mai ở đây được chạm hình tròn trên các cành mai khá dày đặc, hoa mai xoè nở, ở giữa có nhụy, xung quanh là lá. Theo các nhà nghiên cứu thì hình ảnh hoa mai trong điêu khắc truyền thống cả nhà ở lẫn các công trình tôn giáo đều mang ý nghĩa phương thuật biểu trưng cho sự thịnh vượng và hạnh phúc.
Tóm lại: Qua kiến trúc của ngôi nhà cho thấy nhà Ông Lê Đình Bường là một công trình kiến trúc dân gian thời Nguyễn khá tiêu biểu ở đồng bằng sông Mã còn tồn tại đến ngày nay.
Bài trí thờ cúng.
Về cách bài trí thờ cúng ở nhà ông Lê Đình Bường cũng như bao gia đình người Việt khác, việc thờ cúng tâm linh của tổ tiên thường được đặt nơi trang trọng và trang nghiêm ở gian giữa nhà. Bàn thờ là một hương án mới được mua sắm, chất liệu làm bằng gỗ sơn màu nâu đen có kích thước dài 1,97m, rộng 1,12m, cao 1,18m. Trên hương án đặt 01 ngai thờ và và một số đồ thờ như bát hương, lư hương, chân nến, ống hương, đài nước...
Ở phía trên được treo một bức Đại tự có nội dung: “Phụng tiên đường” (từ đường thờ phụng tổ tiên).
Ở hai cột giữa ở phía trong được treo 2 câu đối:
“Tổ tông công đức lưu hồng phúc,
Phụ mẫu từ tâm giáo hiếu trung”.
(Công đức tổ tông lưu phúc lớn
Cha mẹ từ tâm giáo hiếu trung).
Hai câu đối treo ở cột ngoài gian giữa:
“Nhân ân tín nghĩa đồng tam đại.
Lễ giáo thanh danh thịnh một nhà”
(Nhân, ân, tín, nghĩa trọn (cả) ba đời
Lễ giáo thanh danh thịnh một nhà)
Hiện vật trong di tích:
Hiện nay, nhà ông Lê Đình Bường còn lưu giữ được những hiện vật như sau:
Hiện vật cũ: 02 chân nến gỗ; 02 đài gỗ; 01 hộp gỗ; 02 giá ảnh gỗ.
Hiện vật mới: 01 đại tự; 04 câu đối; 01 ngai thờ; 01 bát hương sứ; 01 lư hương đồng; 02 chân nến đồng; 02 hươu đồng.